Offenbar hast du diese Funktion zu schnell genutzt. Du wurdest vorübergehend von der Nutzung dieser Funktion blockiert.
Các điểm giống nhau của Kinh tế, Tài chính và Quản trị Kinh doanh
Cách nhìn nhận về tiền sẽ khác nhau trong mỗi ngành nhưng về cơ bản thì cả ba đều dựa trên nền tảng chung là đồng tiền. Cái gì liên quan đến tiền đều cần sự nguyên tắc, quyết đoán và rõ ràng.
Cấp độ Toán học trong mỗi ngành cũng khác nhau nhưng ít nhiều đều có sự góp mặt của các con số và những phép tính. Nếu bạn chỉ thích làm việc với chữ nghĩa hay tranh ảnh thì nên cân nhắc kỹ lưỡng trước khi chọn học ba ngành này vì không phải ai cũng phù hợp với việc xử lý các con số, nhất là việc nhập sai một con số thường dẫn đến tổn thất lớn.
Ba ngành này đều có chịu sự tác động lẫn nhau nên thường xuất hiện chung. Nếu bạn chọn học một trong ba ngành thì thể nào cũng sẽ ít nhiều biết đến hai ngành còn lại để có góc nhìn toàn cảnh.
Du học ngành Tài chính, Kinh tế hay Quản trị Kinh doanh ở đâu?
Hotcourses khuyên bạn nên du học các ngành kinh tế tại các nước nói tiếng Anh và có nền kinh tế phát triển vững mạnh như Mỹ, Anh, Úc, Canada, New Zealand và Ireland. Như vậy, bạn sẽ được lợi thế rèn luyện ngôn ngữ kinh doanh toàn cầu và học được những kinh nghiệm làm kinh tế thành công đã qua kiểm chứng thực tế. Các trường được nhiều sinh viên lựa chọn du học cho cả 3 chuyên ngành kinh tế trên là:
THU NGÂN SÁCH, HẠN CHẾ, CÓ ĐI CÓ LẠI…
Ông Irwin viết rằng từ khi nước Mỹ độc lập cho tới thời Nội chiến, mục đích của thuế quan chủ yếu là thu ngân sách. Thuế quan khi đó chiếm 90% thu ngân sách của Chính phủ liên bang. Từ thời Nội chiến tới Đại suy thoái, thuế quan nhằm mục đích hạn chế, để bảo vệ các nhà sản xuất ở miền Bắc - khi đó được đại diện bởi Đảng Cộng hoà đang chiếm ưu thế - khỏi sự cạnh tranh của hãng hoá nhập khẩu.
Thời kỳ thứ ba bắt đầu khi Mỹ thông qua Đạo luật Các thoả thuận thương mại có đi có lại (Reciprocal Trade Agreements Act) vào năm 1934. Đạo luật này trao quyền cho tổng thống Mỹ đàm phán hạ thuế quan nếu các nước khác cũng làm như vậy. Sự có đi có lại trong thương mại vẫn là một hình mẫu chủ đạo sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khi các tổng thống Mỹ thuộc cả hai đảng tìm cách dỡ bỏ hàng rào thương mại của các quốc gia khác thông qua công thức kết hợp giữa “củ cà rốt” là các thoả thuận thương mại và ‘cây gậy” là thuế quan và hạn ngạch nhập khẩu có mục tiêu cụ thể.
Thuế quan mà ông Trump áp đầu tiên lên các mặt hàng tấm pin năng lượng mặt trời, máy giặt, thép và nhôm là sự kết hợp giữa hai mục tiêu hạn chế và có đi có lại, nhằm bảo vệ một số ngành công nghiệp trong nước trong khi gây áp lực đòi Canada, Mexico, Nhật Bản và Hàn Quốc điều chỉnh quan hệ thương mại với Mỹ.
Tuy nhiên, thuế quan mà ông Trump áp lệ hàng hoá Trung Quốc và được ông Biden bổ sung lại có mục đích khác nữa. Một phần mục đích của những thuế quan này là sự hạn chế và có đi có lại - bảo vệ các ngành công nghiệp còn non trẻ ở Mỹ và gây sức ép đòi Trung Quốc thay đổi hành vi thương mại. Tuy nhiên, mục đích căn bản hơn của việc áp thuế quan này là điều chỉnh các dòng chảy thương mại, đa dạng hoá hoạt động thương mại của Mỹ khỏi Trung Quốc.
Vị thế thống trị của Trung Quốc ở nhiều loại hàng hoá thành phẩm và khoáng sản đã qua chế biến đã khiến giới chức Mỹ lo ngại rằng Bắc Kinh sẽ giành được ảnh hưởng quá lớn đối với nền kinh tế của Mỹ và các nước đồng minh với Mỹ, rồi sau cùng là an ninh của các quốc gia này. Mối lo ngại đó đã gia tăng cùng với nguy cơ xuất hiện một “cú sốc Trung Quốc” mới đến từ việc Trung Quốc ồ ạt xuất khẩu hàng hoá thành phẩm giá rẻ.
Văn phòng của đại diện thương mại (USTR) Mỹ, bà Katherine Tai - người giữ cương vị đại sứ thương mại của ông Biden, đã làm rõ vấn đề này vào tuần trước, khi đưa ra giải thích vì sao nhiều nhà nhập khẩu bị từ chối miễn thuế quan. Trước đó, các nhà nhập khẩu này đã nộp đơn xin Chính phủ Mỹ gia hạn việc họ được miễn trừ khỏi thuế quan.
“Nhiều nhà nhập khẩu khẳng định rằng các sản phẩm thay thế là không có vì Trung Quốc vẫn là nguồn cung cấp rẻ nhất”, nhưng việc gia hạn miễn trừ sẽ gây trì hoãn sự dịch chuyển “sang các nguồn cung thay thế và duy trì sự phụ thuộc vào các nhà cung ứng và sản phẩm Trung Quốc, dẫn tới xói mòn mục tiêu” khiến Trung Quốc thay đổi hành vi thương mại - tuyên bố của USTR viết.
Việc ai là người thực sự trả thuế quan tuỳ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Một vài nghiên cứu cho thấy các nhà nhập khẩu Mỹ phải trả phần nhiều hơn vì phần chi phí tăng thêm này không hẳn được đẩy về phía người tiêu dùng.
Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu khác lại nhận thấy hàng hoá xuất khẩu của Trung Quốc tăng mạnh sau khi nước này gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2001, mang lại lợi ích cho người tiêu dùng thông qua mức giá rẻ hơn. Đồng thời, cũng chính dòng chảy hàng hoá này lại khiến hàng triệu người lao động Mỹ mất việc làm. Mà người tiêu dùng chính là người lao động, nên việc áp thuế quan vừa giúp bảo vệ việc làm cho họ nhưng cũng gây thiệt hại cho họ vì có thể làm giá hàng hoá tăng lên.
Hai nhà kinh tế học Amit Khandelwal của Đại học Yale và Pablo Fajgelbaum của Đại học California, LA đã minh hoạ rõ nét ảnh hưởng này thông qua nghiên cứu về sự gia tăng ngưỡng áp dụng miễn trừ “de minimis” - một nguyên tắc thương mại mà theo đó những gói hàng nhỏ được vào Mỹ không bị áp thuế quan - lên 800 USD từ 200 USD vào năm 2016.
Các tác giả đã phát hiện thấy rằng trong số các gói hàng được vận chuyển trực tiếp đến các khu vực mã ZIP nghèo nhất ở Mỹ, có 74% là các gói hàng được miễn trừ thuế quan theo nguyên tắc “de minimis”. Trong khi đó, tỷ lệ này ở các khu vực có mã ZIP giàu nhất ở Mỹ chỉ là 52%. “De minimis” là một nguyên tắc gây nhiều tranh cãi, vì bị nhiều nhà nhập khẩu tận dụng để né thuế quan áp lên hàng hoá Trung Quốc. Hai công ty bán hàng trực tuyến khổng lồ là Shein và Temu đã tranh thủ “de minimis” để vận chuyển hàng hoá từ Trung Quốc vào Mỹ.
Nhiều nghị sỹ Quốc hội Mỹ và cả các cố vấn của ông Trump muốn “de minimis” bị xoá bỏ. Nhưng hai nhà kinh tế trên nói rằng việc xoá bỏ nguyên tắc này sẽ gây thiệt hại cho người nghèo: những người sống ở khu vực mã ZIP có thu nhập thấp hơn sẽ thiệt hại 45 USD/năm, so với chỉ 35 USD đối với những người ở các khu vực có thu nhập trung bình, và 81 USD đối với những người sống ở các khu vực có mã ZIP giàu nhất.
Hiện tại, thuế quan tương đương 2% tổng giá trị hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ. Tỷ lệ này sẽ tăng vọt lên 17%, mức cao nhất kể từ khi Mỹ thông qua Thuế quan Smooth-Hawley vào năm 1930, nếu ông Trump tái đắc cử và thực hiện cam kết tăng thuế quan lên 60% hoặc hơn đối với toàn bộ hàng Trung Quốc nhập khẩu và 10% đối với hàng hoá từ phần còn lại của thế giới vào Mỹ - theo các nhà kinh tế Sarah Bianchi và Matthew Aks của công ty môi giới Evercore IS.
Mức thuế quan như vậy sẽ gây thiệt hai thực sự lớn đối với người tiêu dùng Mỹ, đặc biệt là những người thuộc tầng lớp thu nhập thấp hơn. Hai nhà kinh tế Kimberly Clausing và Mary Lovely của Viện Kinh tế Quốc tế Peterson ước tính thuế quan như vậy sẽ làm suy giảm 4,2% sức mua của 20% hộ gia đình Mỹ nghèo nhất, nhưng chỉ giảm 0,9% đối với top 1% giàu nhất. Thiệt hại này chưa tính đến tất cả tổn thất, chẳng hạn việc các nhà sản xuất kém hiệu quả đẩy chi phí về phía người tiêu dùng hay những gián đoạn do tổ chức lại chuỗi cung ứng.